Dẫu cho có cách hiểu tương đối xác định về quan niệm thơ vịnh sử, chúng tôi vẫn cảm thấy lúng túng khi tìm cách bóc tách những bài thơ gọi là thơ vịnh sử ra khỏi nền thơ chung ở các tác gia không có thơ vịnh sử thành tập riêng. Ở đây cần có một tiêu chí cho thơ vịnh sử, rồi dựa vào đó mà nhận diện những bài thơ vịnh của nhiều tác gia. Tiêu chí đó theo quan niệm ở trên thì thơ vịnh sử trước hết là vịnh nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, di tích lịch sử.
Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh, một nhà văn hóa lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, phần văn thơ chữ Nôm tuy ít hơn chữ Hán, nhưng lại có những cống hiến độc đáo đặc sắc. Ông vừa là vua, vừa là một tác gia văn học lớn gắn liền với một giai đoạn phát triển thơ Nôm Đường luật nửa sau thế kỷ XV.
Dẫu cho có cách hiểu tương đối xác định về quan niệm thơ vịnh sử, chúng tôi vẫn cảm thấy lúng túng khi tìm cách bóc tách những bài thơ gọi là thơ vịnh sử ra khỏi nền thơ chung ở các tác gia không có thơ vịnh sử thành tập riêng. Ở đây cần có một tiêu chí cho thơ vịnh sử, rồi dựa vào đó mà nhận diện những bài thơ vịnh của nhiều tác gia. Tiêu chí đó theo quan niệm ở trên thì thơ vịnh sử trước hết là vịnh nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, di tích lịch sử.
Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh, một nhà văn hóa lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, phần văn thơ chữ Nôm tuy ít hơn chữ Hán, nhưng lại có những cống hiến độc đáo đặc sắc. Ông vừa là vua, vừa là một tác gia văn học lớn gắn liền với một giai đoạn phát triển thơ Nôm Đường luật nửa sau thế kỷ XV.