Browsing by Author Nguyễn, Ngọc Khôi

Jump to: 0-9 A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z
or enter first few letters:  
Showing results 1 to 10 of 10
  • BKT_00058.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Khoáng vật carbonat là muối của axit carbonic, trong đó các cation chủ yếu là Ca2+, Mg2+, ít hơn là Na+, Fe2+, ít khi gặp carbonat của Cu2+, Zn2+, Pb2+, Mn2+, Ba2+, Sr2+, TR3+ và Bi3+. Trong thành phần carbonat có thể có các anion phụ (OH)-, F-, ít khi có Cl-. Trong lớp carbonat có khoảng 95 khoáng vật. Các khoáng vật carbonat rất đặc trưng bởi mối liến kết hỗn hợp, trong đó liên kết cộng hóa trị gặp trong gốc anion [CO3]2- và liên kết ion gặp trong cấu trúc giữa anion và cation. Trong khoáng vật carbonat chứa anion phụ thì nước có mối liên kết hydro. Hiện tượng thay thế đồng hình trong carbonat hạn chế hơn so với phosphat, arsenat và va-nadat, trong đó có sự thay thế đồng hình liên t...

  • BKT_00054.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Khoáng vật là những hợp phần tạo nên các loại đá, được xác định dựa trên thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể. Hầu hết các hệ thống phân loại khoáng vật đều dựa trên các tính chất này. Tổng số khoáng vật được cộng đồng khoáng vật học trên thế giới thừa nhận hiện nay là khoảng 4000. Khoáng vật có thể có các biến loại khác nhau. Á khoáng vật (mineraloid) là những chất giống khoáng vật, như các chất tổng hợp, các chất tạo thành có sự tham gia của con người và một vài chất có nguồn gốc hữu cơ, không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn quan trọng của một khoáng vật theo định nghĩa.

  • BKT_00068.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Kim cương lần đầu tiên được tìm thấy ở Ấn Độ hơn 4000 năm trước đây. Đó là những viên đá quý có vẻ đẹp óng ánh kỳ diệu trộn lẫn trong cát và sỏi ẩn dưới lớp phù sa ở lòng sông. Tên gọi kim cương trong nhiều ngôn ngữ Châu Âu có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ – adamas (αδάμας có nghĩa là “không thể phá hủy”). Trong tiếng Việt chữ “kim cương” có gốc Hán-Việt (金剛), có nghĩa là “kim loại cứng”. Kim cương là một loại đã được sưu tầm và sử dụng trong những biểu tượng tôn giáo của người Ấn Độ cổ cách đây ít nhất 2.500 năm. Hiện nay khoảng 49% kim cương được khai thác ở Trung Phi và Nam Phi, một số lượng lớn kim cương cũng được phát hiện và khai thác ở Canada, Ấn Độ, Nga, Brazil, Úc.

  • BKT_00069.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Các khoáng vật thuộc nhóm mica có sự dao động đáng kể về các tính chất hóa học và vật lý, nhưng tất cả chúng đều có dạng tấm mỏng điển hình và cát khai hoàn toàn theo hình đôi mặt do cấu trúc phân lớp đặc trưng của chúng. Tất cả các khoáng vật mica đều có dấu quang học âm và có phương quang học α gần như vuông góc với phương cát khai hoàn toàn của chúng. Những mica phổ biến nhất là muscovit (hay mica trắng), mica loạt phlogopit-biotit (mica nâu hoặc đen), paragonit, glauconit, lepidolit (mica lithi) và zinwaldit, trong đó muscovit, phlogopit và lepidolit là có giá trị kinh tế nhất định.

  • BKT_00353.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Ngọc hay đá quý đều là những tên gọi quen thuộc, được con người sử dụng từ rất lâu trước khi ra đời chuyên ngành khoa học nghiên cứu về chúng – ngọc học. Cho đến nay, hai từ ngọc (gem) hay đá quý (gemstone) được sử dụng với ý nghĩa như nhau, vì vậy ở Việt Nam có người còn sử dụng thay bằng một từ chung là đá ngọc. Hầu hết các loại ngọc (đá quý) được con người sử dụng cho đến nay đều là các vật liệu thuộc về phần trên cùng của Trái Đất – vỏ Trái Đất. Đó là các loại khoáng vật, các loại đá và các vật liệu khác, được con người sử dụng vào mục đích làm đẹp (trang sức, trang trí, mỹ nghệ). Vì vậy, khái niệm đá quý gắn chặt với các khái niệm “khoáng vật”, “đá” và “khoáng sản”.

  • BKT_00071.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Có một số các nguyên tố trong Bảng hệ thống tuần hoàn tồn tại dưới dạng nguyên tố trong tự nhiên và được gọi là các nguyên tố tự sinh. Đó là các nguyên tố quen thuộc dùng để đúc tiền như đồng, bạc và vàng, cho đến các kim loại có hoạt tính khá mạnh như sắt, kẽm và cả nhôm. Các khoáng vật nguyên tố tự sinh tồn tại dưới dạng không liên kết, với cấu trúc khoáng vật rõ ràng. Lớp nguyên tố tự sinh bao gồm các nguyên tố kim loại và các liên kim loại (intermetallic), các nguyên tố bán kim và phi kim [B. 1]. Một số tác giả còn xếp các hợp kim tự nhiên, các hợp chất phosphur, silicur và carbur vào lớp khoáng vật này.

  • BKT_00074.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Lớp khoáng vật oxit gồm những khoáng vật trong đó anion oxy (O2-) liên kết với một hoặc vài ion kim loại. Các khoáng vật hydroxit cũng thường được xếp chung vào lớp này; như vậy oxit và hydroxit là những hợp chất của các kim loại và á kim với oxy và hydroxil. Hiện nay đã xác định được tới 200 khoáng vật oxit và hydroxit. Chúng chiếm gần 17% trọng lượng của thạch quyển, trong đó 12,6% thuộc nhóm oxit silic, và 3,9% là các oxit và hydroxit sắt (khoảng 50 khoáng vật).

  • BKT_00079.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Các khoáng vật sulfur thuộc lớp khoáng vật chứa ion S2- như là anion chính. Lớp sulfur còn bao gồm cả các khoáng vật selenur, telurur, arsenur, antimonur, bismuthinur, sulfoarsenur và sulfur muối [sulfosalt (Anh) = sulforsel (Pháp)]. Tất cả các khoáng vật sulfur đều là các hợp chất vô cơ. Khoáng vật sulfur là nguồn cung cấp chủ yếu của nhiều loại kim loại và là nhóm khoáng vật quặng quan trọng nhất. Ngoài sự tập trung của chúng trong các mỏ khoáng và các đơn vị sinh khoáng, một lượng nhỏ sulfur còn gặp dưới dạng các khoáng vật phụ trong đá. Trong thực tế, chỉ các khoáng vật pyrit, pyrotin, galenit, sphalerit, chalcopyrit, và có thể cả các sulfur kép nhóm chalcosit của đồng, mới được c...

  • BKT_00083.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Vàng tự sinh vừa là nguyên tố, vừa là một khoáng vật, nó được con người đặc biệt ưa chuộng do có màu sắc đẹp, không bị xỉn và nhiều tính chất đặc trưng khác nữa, được sử dụng không những trong mỹ nghệ, trang sức mà còn cả trong những công nghệ cao cấp như công nghiệp điện tử và nhiều lĩnh vực khác, v.v... Chính sự quý hiếm, công dụng hữu ích và độ bền vững của vàng làm cho nó luôn luôn có giá trị rất cao.

  • BKT_00085.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Zircon là một khoáng vật thuộc nhóm silicat đảo. Tên hóa học là silicat zirconi, công thức hóa học ZrSiO4. Tên gọi “zircon” có thể có xuất xứ từ tiếng Syri cổ “zargono”, từ tiếng Ả Rập ”zarqun” (زرقون), nghĩa là màu đỏ son, hoặc từ tiếng Ba Tư ”zargun” (زرگون), có nghĩa là màu vàng. Zircon là khoáng vật phụ phổ biến trong các đá magma axit và cũng gặp trong các đá biến chất, cũng là khoáng vật nặng phổ biến trong đá trầm tích; do đó trong cát ven biển ở nhiều nước thường gặp tụ khoáng zircon. Khoáng vật này là quặng của zirconi, đất hiếm và đôi khi là quặng của các nguyên tố phóng xạ, các tinh thể zircon chất lượng ngọc được coi là đá quý. Zircon còn được sử dụng trong định tuổi địa c...

Browsing by Author Nguyễn, Ngọc Khôi

Jump to: 0-9 A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z
or enter first few letters:  
Showing results 1 to 10 of 10
  • BKT_00058.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Khoáng vật carbonat là muối của axit carbonic, trong đó các cation chủ yếu là Ca2+, Mg2+, ít hơn là Na+, Fe2+, ít khi gặp carbonat của Cu2+, Zn2+, Pb2+, Mn2+, Ba2+, Sr2+, TR3+ và Bi3+. Trong thành phần carbonat có thể có các anion phụ (OH)-, F-, ít khi có Cl-. Trong lớp carbonat có khoảng 95 khoáng vật. Các khoáng vật carbonat rất đặc trưng bởi mối liến kết hỗn hợp, trong đó liên kết cộng hóa trị gặp trong gốc anion [CO3]2- và liên kết ion gặp trong cấu trúc giữa anion và cation. Trong khoáng vật carbonat chứa anion phụ thì nước có mối liên kết hydro. Hiện tượng thay thế đồng hình trong carbonat hạn chế hơn so với phosphat, arsenat và va-nadat, trong đó có sự thay thế đồng hình liên t...

  • BKT_00054.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Khoáng vật là những hợp phần tạo nên các loại đá, được xác định dựa trên thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể. Hầu hết các hệ thống phân loại khoáng vật đều dựa trên các tính chất này. Tổng số khoáng vật được cộng đồng khoáng vật học trên thế giới thừa nhận hiện nay là khoảng 4000. Khoáng vật có thể có các biến loại khác nhau. Á khoáng vật (mineraloid) là những chất giống khoáng vật, như các chất tổng hợp, các chất tạo thành có sự tham gia của con người và một vài chất có nguồn gốc hữu cơ, không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn quan trọng của một khoáng vật theo định nghĩa.

  • BKT_00068.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Kim cương lần đầu tiên được tìm thấy ở Ấn Độ hơn 4000 năm trước đây. Đó là những viên đá quý có vẻ đẹp óng ánh kỳ diệu trộn lẫn trong cát và sỏi ẩn dưới lớp phù sa ở lòng sông. Tên gọi kim cương trong nhiều ngôn ngữ Châu Âu có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ – adamas (αδάμας có nghĩa là “không thể phá hủy”). Trong tiếng Việt chữ “kim cương” có gốc Hán-Việt (金剛), có nghĩa là “kim loại cứng”. Kim cương là một loại đã được sưu tầm và sử dụng trong những biểu tượng tôn giáo của người Ấn Độ cổ cách đây ít nhất 2.500 năm. Hiện nay khoảng 49% kim cương được khai thác ở Trung Phi và Nam Phi, một số lượng lớn kim cương cũng được phát hiện và khai thác ở Canada, Ấn Độ, Nga, Brazil, Úc.

  • BKT_00069.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Các khoáng vật thuộc nhóm mica có sự dao động đáng kể về các tính chất hóa học và vật lý, nhưng tất cả chúng đều có dạng tấm mỏng điển hình và cát khai hoàn toàn theo hình đôi mặt do cấu trúc phân lớp đặc trưng của chúng. Tất cả các khoáng vật mica đều có dấu quang học âm và có phương quang học α gần như vuông góc với phương cát khai hoàn toàn của chúng. Những mica phổ biến nhất là muscovit (hay mica trắng), mica loạt phlogopit-biotit (mica nâu hoặc đen), paragonit, glauconit, lepidolit (mica lithi) và zinwaldit, trong đó muscovit, phlogopit và lepidolit là có giá trị kinh tế nhất định.

  • BKT_00353.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Ngọc hay đá quý đều là những tên gọi quen thuộc, được con người sử dụng từ rất lâu trước khi ra đời chuyên ngành khoa học nghiên cứu về chúng – ngọc học. Cho đến nay, hai từ ngọc (gem) hay đá quý (gemstone) được sử dụng với ý nghĩa như nhau, vì vậy ở Việt Nam có người còn sử dụng thay bằng một từ chung là đá ngọc. Hầu hết các loại ngọc (đá quý) được con người sử dụng cho đến nay đều là các vật liệu thuộc về phần trên cùng của Trái Đất – vỏ Trái Đất. Đó là các loại khoáng vật, các loại đá và các vật liệu khác, được con người sử dụng vào mục đích làm đẹp (trang sức, trang trí, mỹ nghệ). Vì vậy, khái niệm đá quý gắn chặt với các khái niệm “khoáng vật”, “đá” và “khoáng sản”.

  • BKT_00071.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Có một số các nguyên tố trong Bảng hệ thống tuần hoàn tồn tại dưới dạng nguyên tố trong tự nhiên và được gọi là các nguyên tố tự sinh. Đó là các nguyên tố quen thuộc dùng để đúc tiền như đồng, bạc và vàng, cho đến các kim loại có hoạt tính khá mạnh như sắt, kẽm và cả nhôm. Các khoáng vật nguyên tố tự sinh tồn tại dưới dạng không liên kết, với cấu trúc khoáng vật rõ ràng. Lớp nguyên tố tự sinh bao gồm các nguyên tố kim loại và các liên kim loại (intermetallic), các nguyên tố bán kim và phi kim [B. 1]. Một số tác giả còn xếp các hợp kim tự nhiên, các hợp chất phosphur, silicur và carbur vào lớp khoáng vật này.

  • BKT_00074.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Lớp khoáng vật oxit gồm những khoáng vật trong đó anion oxy (O2-) liên kết với một hoặc vài ion kim loại. Các khoáng vật hydroxit cũng thường được xếp chung vào lớp này; như vậy oxit và hydroxit là những hợp chất của các kim loại và á kim với oxy và hydroxil. Hiện nay đã xác định được tới 200 khoáng vật oxit và hydroxit. Chúng chiếm gần 17% trọng lượng của thạch quyển, trong đó 12,6% thuộc nhóm oxit silic, và 3,9% là các oxit và hydroxit sắt (khoảng 50 khoáng vật).

  • BKT_00079.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Các khoáng vật sulfur thuộc lớp khoáng vật chứa ion S2- như là anion chính. Lớp sulfur còn bao gồm cả các khoáng vật selenur, telurur, arsenur, antimonur, bismuthinur, sulfoarsenur và sulfur muối [sulfosalt (Anh) = sulforsel (Pháp)]. Tất cả các khoáng vật sulfur đều là các hợp chất vô cơ. Khoáng vật sulfur là nguồn cung cấp chủ yếu của nhiều loại kim loại và là nhóm khoáng vật quặng quan trọng nhất. Ngoài sự tập trung của chúng trong các mỏ khoáng và các đơn vị sinh khoáng, một lượng nhỏ sulfur còn gặp dưới dạng các khoáng vật phụ trong đá. Trong thực tế, chỉ các khoáng vật pyrit, pyrotin, galenit, sphalerit, chalcopyrit, và có thể cả các sulfur kép nhóm chalcosit của đồng, mới được c...

  • BKT_00083.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Vàng tự sinh vừa là nguyên tố, vừa là một khoáng vật, nó được con người đặc biệt ưa chuộng do có màu sắc đẹp, không bị xỉn và nhiều tính chất đặc trưng khác nữa, được sử dụng không những trong mỹ nghệ, trang sức mà còn cả trong những công nghệ cao cấp như công nghiệp điện tử và nhiều lĩnh vực khác, v.v... Chính sự quý hiếm, công dụng hữu ích và độ bền vững của vàng làm cho nó luôn luôn có giá trị rất cao.

  • BKT_00085.pdf.jpg
  • Article


  • Authors: Nguyễn, Ngọc Khôi (2017)

  • Zircon là một khoáng vật thuộc nhóm silicat đảo. Tên hóa học là silicat zirconi, công thức hóa học ZrSiO4. Tên gọi “zircon” có thể có xuất xứ từ tiếng Syri cổ “zargono”, từ tiếng Ả Rập ”zarqun” (زرقون), nghĩa là màu đỏ son, hoặc từ tiếng Ba Tư ”zargun” (زرگون), có nghĩa là màu vàng. Zircon là khoáng vật phụ phổ biến trong các đá magma axit và cũng gặp trong các đá biến chất, cũng là khoáng vật nặng phổ biến trong đá trầm tích; do đó trong cát ven biển ở nhiều nước thường gặp tụ khoáng zircon. Khoáng vật này là quặng của zirconi, đất hiếm và đôi khi là quặng của các nguyên tố phóng xạ, các tinh thể zircon chất lượng ngọc được coi là đá quý. Zircon còn được sử dụng trong định tuổi địa c...